Các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên

Vùng Tây Nguyên Việt Nam bao gồm 5 tỉnh thành: Đăk Lăk, Đăk Nông, Kom Tum, Gia Lai và Lâm Đồng. Đây là nơi sinh sống của rất nhiều dân tộc thiểu số, trong đó phải kể đến người Bana, Gia Rai, Ê Đê, M’nong, Cơ Ho, Mạ, những dân tộc bản địa địa sinh sống ở đây qua nhiều thế kỷ.

 

Dân tộc Bana

Người Bana sống chủ yếu trên địa bàn tỉnh Kon Tum, với những phong tục tập quán như thờ nhiều thần linh, hôn nhân tự do, cưới xin theo nếp cổ truyền, sau khi sinh con đầu lòng mới làm nhà riêng.

Dân tộc Bana sinh sống ở các tầng nhà sàn chắc chắn, mỗi bản làng lại có một nhà công cộng (nhà rông) và đẹp ở giữa làng. Văn hóa hóa của người dân gắn liền với các loại nhạc cụ đa dạng, từ cồng, chiêng đến đàn T’rưng, ​​Klong pút, Koni, kèn tơ ghi chú…; nghệ thuật khắc gỗ ở đây cũng rất phát triển. Điều này có thể được thể hiện qua công trình Nhà thờ tòa nhà Kon Tum (Nhà thờ gỗ Kon Tum), một địa điểm tôn giáo linh thiêng được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ, vô cùng đẹp mắt.

Nhà thờ gỗ Kon Tum

Trang phục của dân tộc Bana là nam đóng khố, nữ mặc váy. Họ sinh sống chủ yếu giúp làm Cánh đồng và chăn nuôi. Mỗi làng đều có lò rèn, phụ nữ dệt vải tự lo đồ mặc cho gia đình; đàn ông đan chiếu, dệt lưới, làm gùi, giỏ… Mua bán theo chế độ đổi hàng.

 

Dân tộc Gia Rai

Địa bàn cư trú của dân tộc Gia Rai chủ yếu ở các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk. Họ có phong tục thờ thần (Giàng) và nhiều nghi lễ liên quan đến thần thoại trong sản xuất; duy trì chế độ mẫu hệ, con theo họ mẹ và được chia tài sản khi lấy chồng. Hôn nhân tự làm, con gái chủ động hôn nhân. Con trai ở rể, không được thiết kế tài sản.

Dân sống thành làng, ở nhà sàn, mỗi làng có một nhà rông. Già làng là người đầu tiên. Nhạc cụ có chiêng, cồng, đàn T’rưng, ​​đàn tưng nưng, đàn klông pút. Dân tộc Gia Rai cũng là những người sản xuất ra những trường ca, truyện cổ nổi tiếng.

Người dân sinh sống bằng cách trồng nương làm ruộng và chăn nuôi, đặc biệt có nuôi voi.

 

Dân tộc Ê Đê

Người Ê Đê sinh sống chủ yếu ở tỉnh Đăk Lăk và phía nam tỉnh Gia Lai. Họ thờ nhiều thần linh, sống trong nhà sàn và nhà dài. Trong nhà, một nửa chính để tiếp khách, gọi là Gah; nửa còn lại là không gian sinh hoạt của gia đình (Ôk).

Cộng đồng dân tộc Ê Đê cũng duy trì chế độ mẫu hệ, con theo họ mẹ, con trai không được thừa kế. Đàn ông ở nhà vợ, nếu vợ chết chị em nhà vợ không còn ai thay thế thì về ở với chị hoặc em gái.

Nhạc cụ có chiêng, trống, sáo, khèn, đàn. Đây là một loại nhạc cụ phổ biến và được yêu thích. Kho tàng văn học truyền khẩu phong phú: thần thoại, cổ tích, cao dao, đặc biệt là trường ca, sử thi (Khan).

Về trang phục, áo mặc nữ, váy ngắn màu hồng, hoa văn sặc sỡ. Nam đóng kho, mặc áo. Đồ trang sức: bạc, đồng, hạt cườm.

 

Dân tộc M’Nông

Địa bàn cư trú chủ yếu ở tỉnh Đăk Lăk, Lâm Đồng và Bình Phước, người M’nông cũng như các dân tộc khác ở Tây Nguyên, thờ nhiều thần linh, đặc biệt là thần lúa. Họ sống thành làng ở các nhà sàn, nhà rồng, mỗi làng có một số móng ngựa nhà, đứng đầu là trưởng làng.

Duy trì chế độ mẫu hệ, con mang họ mẹ, người vợ là chủ gia đình. Người M’nông thích nhiều con gái, sinh sau 1 năm mới đặt tên. Tang lễ có tập quán ca hát, gõ chiêng, trống bên trong áo quan. Khi hạ huyệt dùng cây, que, lá cây trải kín hố rồi lấp đất. Qua 7 ngày hoặc 1 tháng thì làm lễ tang. Mọi người đều thích rượu cần và thuốc lá cuốn.

Về trang phục, nữ mặc váy quần dài, nam đóng kho, leo trần. Nghề săn và thiền dưỡng với ở đây rất nổi tiếng (Buôn Đôn).

 

>> Tham khảo thêm : Cẩm nang du lịch Tây Nguyên chi tiết nhất

Để lại một trả lời

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố.